Ngày xưa, có một phú ông rất sùng mộ đạo Phật. Phú ông xuất tiền
xây cất một ngôi Chùa cực kỳ nguy nga tráng lệ. Ông già hảo tâm ấy lại có tính
hiếu kỳ. Sau khi hoàn thành ngôi Bảo điện ông già muốn có một điểm gì đặc
biệt khác thường nên ông chạm trổ một bức hoành phi thật đẹp và khắc sáu chữ
vàng “Nam mô A Di Ðà Phật” bằng chữ phạn rồi treo trước chánh điện. Những học
giả và bô lão trong làng đều chịu không biết là chữ gì. Họ rất thánh phục Phú
ông, cho Phú ông là một học giả uyên bác, thông hiểu cả Phạn ngữ. Kỳ thật thì
Phú ông đã nhờ một Pháp sư người Ấn Ðộ viết cho sáu chữ đó.
Ðược thiên hạ trầm trồ khen ngợi bao nhiêu thì tính hiếu kỳ tự đắc
của Phú ông càng bị kích thích bấy nhiêu. Một hôm, ông cho viết sáu chữ ấy lên
các tấm bảng gỗ kèm theo mấy hàng chữ bản xứ ở dưới: “Nếu ai đọc được mấy chữ
này tôi sẽ gả con gái cho làm vợ và chia một nửa gia tài”. Ðoạn Phú ông cho
dựng những tấm bảng đó khắp nơi trong vùng và mỗi nơi cắt một người đứng gác.
Sau khi những tấm yết thị được dựng lên các học giả, văn gia, thi
sĩ và nho sinh nô nức đến xem, nhưng không một ai đọc được cả.
Một ngày nọ có chàng thanh niên bán chiếu tên Hoàng Kim Ấn, đi qua
một nơi có dựng bảng, thấy rất nhiều người đang chen lấn nhau vào xem chữ, dĩ
nhiên là ai cũng ôm một bầu hy vọng to tướng trong lòng. Tò mò, chàng bán chiếu
cũng cố len lỏi để vào cho được. Nhưng khi đến nơi, nhìn lên tấm bảng chàng
chẳng hiểu cái quái gì, chỉ thấy mấy dòng chữ ngoằn ngoèo như giun bò, chàng
thất vọng quay ra. Song, lúc chàng vừa quay ra thì không may đầu đòng gánh của
chàng đụng ngay vào trán của một văn sĩ đang đứng bên cạnh. Hoàng Kim Ấn hoảng
hồn la lên “Nam Mô A Di Ðà Phật”. Lập tức người đứng gác bảng tóm lấy cổ chàng
và nói: “Ðúng người này rồi”. Hoàng Kim Ấn chẳng hiểu đầu đuôi ra sao, cứ van
lạy để xin lỗi vì trót vô ý để đòn gánh đụng vào trán nhà văn. Nhưng người gác
nhất định không buông tha chàng, và vội vàng đưa chàng về trình với Phú ông.
Chàng bán chiếu vẫn kêu van lạy lục xin tha, nhưng người gác lại nói:
- Anh này thật dại dột, sắp được vợ đẹp và giàu sang đến nơi rồi
mà không biết, còn cứ xin tha mãi! Bộ anh sợ vợ hay sao?
Hoàng Kim Ấn càng hoang mang ngơ ngác thêm không hiểu chi hết và
cứ bước theo người gác về nhà Phú ông.
Chả là Hoàng Kim Ấn là một Phật tử rất kiên thành. Mặc dầu nhà
nghèo, học ít, không được đọc kinh sách, nhưng chàng rất tin Phật, nên chỉ trì
sáu chữ Nam mô A Di Ðà Phật và lúc nào cũng nhớ Phật, niệm Phật, dù đi đứng,
nằm, ngồi không bao giờ quên cả. Niệm Phật đối với chàng đã thành một thói
quen. Mỗi khi gặp nguy hiểm, hay việc gì ngoài ý muốn của chàng, chàng lại niệm
Phật to hơn. Do đó, lúc vô ý để đòn gánh của mình đụng vào tránh nhà văn
sĩ, chàng cất tiếng niệm danh hiệu Phật, mục đích để cầu cho việc đó được vô
sự. Nhưng không ngờ sáu chữ chàng niệm lại đúng với sáu chữ viết bằng chữ Phạn
ở trên bảng, nên người đứng gác tưởng chàng biết những chữ ấy, nên liền tóm lấy
cổ chàng rồi lôi cổ chàng về để Phú ông gả con gái cho. Khốn nỗi chàng bán
chiếu không hiểu cứ tưởng là người ta bắt đi để mang “gông” vào cổ, vì đã làm
sứt trán của nhà văn lúc nãy nên cứ kêu xin tha tội hoài!
Khi về tới nhà Phú ông, chàng bán chiếu mới vỡ lẽ là chàng được
tôn lên hàng “học giả” để cùng sánh vai với tiểu thư, con gái Phú ông để cùng
ca khúc “Phượng cầu Kỳ Hoàng”. Chàng bán chiếu thấy bàn tay của định mệnh xếp
đặt lắm việc kỳ diệu quá. Bất giác chàng khẽ ngâm hai câu đối để ghi lại một
biến chuyển trong quãng đời chàng mà chàng cho là vô cùng huyền bí:
“Phúc chủ, lộc thầy, bát tất con hiền, con thận,
Thơm tay, may miệng, hà tụ phụng thỉnh, phụng chư”.
Từ đó, Hoàng Kim Ấn sống cuộc đời trưởng giả, nhưng hàng ngày
chàng vẫn không quên công việc niệm Phật của quãng đời bán chiếu hồi xưa.
Một hôm, vì trái nắng trở trời, vợ chàng cảm gió. Cũng tưởng chỉ
qua loa, nào ngờ mỗi ngày bệnh tình mỗi trầm trọng, cứ sốt li bì, không thuốc
nào khỏi. Hoàng Kim Ấn đâm lo và lúc nào cũng ngồi bên giường bệnh nhân
để niệm Phật. Vừa niệm, chàng vừa đưa tay thoa từ đầu đến chân của tiểu
thư, và huyền diệu thay! Hễ chàng đưa tay đến đâu là nàng cảm thấy nhẹ nhõm đến
đó. Chẳng bao lâu, vợ chàng bình phục hẳn. Thật là đã “may miệng” lại “thơm
tay”.
Từ đó, Hoàng Kim Ấn nổi tiếng là một “Ðại y sư” thành danh lừng
lẫy, đồn đến tai Vua.
Thật là một sự trùng hợp ly kỳ. Cũng trong thời gian trái nắng,
trái gió ấy. Công chúa cũng lâm bệnh, và bao nhiêu danh y đã được triệu
vào để trị liệu cho Công chúa, nhưng đều vô hiệu. Khi tiếng tăm của Hoàng Kim
Ấn được đồn đến Hoàng cung, lập tức nhà vua hạ chiếu chỉ vời chàng vào để chữa
cho Công chúa. Nhận được chiếu chỉ, Hoàng Kim Ấn cảm thấy bối rối, lo sợ,
sợ vì không biết miệng chàng còn may không nữa? Câu niệm Phật biết có còn hiệu
nghiệm để chữa bệnh cho Công chúa nữa không? Mặc dầu lo sợ, song không cách nào
để khước từ mệnh lệnh của nhà Vua, bởi vậy chàng đành “nhắm mắt đưa chân” và
chỉ tin tưởng vào sức vạn năng của một câu niệm Phật chí thành, đã đến chỗ nhất
tâm bất loạn.
Khi tới Hoàng cung, Hoàng Kim Ấn được đưa ngay vào phòng bệnh của
Công chúa. Chàng đuổi hết người hầu cận ra ngoài. Trong phòng chỉ còn có chàng
và Công chúa. Bây giờ chàng bắt đầu chữa cho Công chúa bằng phương thần dược:
Miệng chàng niệm Phật, tay chàng thoa vào đầu và mình mẩy Công chúa. Công chúa
ngạc nhiên và không thấy y sư cho uống thuốc gì cả, mà trong người thì cứ thấy
nhẹ nhàng dần, rồi cuối cùng như một chiếc đũa thần hễ tay Hoàng Kim Ấn đưa đến
đâu là bệnh hết đến đấy. Mừng và lạ quá, Công chúa chạy vào tâu với Hoàng hậu
và Ðức Vua. Nhà Vua thấy con mình bình phục mau quá cũng hết sức ngạc nhiên và
trong bụng nghĩ thầm Hoàng Kim Ấn đúng là “Thánh sư”.
Nhà Vua hạ lệnh mở yến ăn mừng và khoản đãi “Thánh sư”. Trong bữa
tiệc không thiếu một thứ gì, đủ cả sơn hào hải vị. Trong lúc rượu đã ngà ngà,
Nhà Vua nhìn ra sân, nơi có đắp một con rồng thật lớn nói với Hoàng Kim Ấn:
- Trẫm đố khanh biết trong miệng con rồng kia có cái gì? Nếu khanh
nói đúng, Trẫm sẽ cho làm phò mã và gả Công chúa cho, bằng không trẫm bắt tội!
Nguy to rồi, nếu lần này mà cái miệng của chàng hết “may” thì đến
“du địa phủ”. Ðầu óc Hoàng Kim Ấn lúc này thật là rối tùng xòe, như một túi
bòng bong vậy. Chàng tự nghĩ: “Nếu không nói đúng, chắc mình phải chết, còn nếu
nói đúng thì cái nghĩa “tào khang chi thê” mới làm sao đây?”. Thật là tiến
thoái lưỡng nan. Ðúng cũng khổ mà không đúng thì chết. Chàng cứ băn khoăn lo
lắng, tự nghĩ đời tàn, bất giác chàng than một câu để thương cho số phận: Hoàng
Kim Ấn! Nhưng chàng vừa dứt lời thì bỗng nhà Vua vỗ tay reo và truyền gọi Công
chúa ra dâng cho chàng một ly rượu. Hoàng Kim Ấn ngơ ngác, không hiểu ra sao.
Chàng còn đang ngơ ngác thì nhà Vua nói:
- Khanh nói đúng, thật là Thánh sư! Trẫm có cất chiếc “Hoàng Kim
Ấn” trong miệng rồng đó! Kỳ diệu biết bao! Tưởng mình chết đến nơi, kêu tên
mình lên để than thở cho số phận, không ngờ tên mình lại trùng với tên có giấu
bằng vàng ròng của nhà Vua, chết thì thoát rồi, còn việc phò mã và lấy Công
chúa thì sao? Hoàng Kim Ấn vập đầu xin nhà Vua tha cho tội đó, viện lẽ mình đã
có vợ và phải giữ trọn đạo thủy chung. Nhà Vua cảm khích vì người có tiết
nghĩa, không nỡ ép buộc, liền ban thưởng thật trọng hậu rồi sai cận vệ đưa tiễn
về nhà…
Huyền diệu và linh nghiệm thay sáu chữ Nam mô A Di Ðà Phật khi
được phát ra với niềm chí thiết, chí thành và nhất tâm bất loạn!
NGƯ ÔNG
Ví dù muôn đắng ngàn cay,
Một câu niệm Phật tan ngay cấp
kỳ!...
Niệm Phật dứt bỏ oán thù,
Lòng không hung dữ ngục tù đâu
vương?
Niệm Phật mở rộng lòng thương
Oan thân bình đẳng tai ương nào
vào?